Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

Những bức body painting tuyệt vời




Những bức body painting tuyệt vời vừa cho thấy cảnh đẹp trong tranh, cũng vừa tôn lên vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ.
John Poppleton là một họa sĩ ở California. Trong một dự án body painting của mình, John đã dùng huỳnh quang gồm các màu tím hoa cà, cam và xanh lá làm chất liệu cho những bức tranh. Sau khi hoàn thành, kết quả của chúng thực sự đáng kinh ngạc. Dự án này với tên gọi "Dưới ánh màn đêm" là những bức tranh về thiên nhiên như hoàng hôn ở châu Phi, đại dương nhiệt đới trong mưa hay những dãy núi dưới ánh trăng, v.v...bKhông chỉ cho người xem thấy được cảnh đẹp trong tranh, John còn muốn dùng chúng để tôn vinh vẻ đẹp của phụ nữ - những người mẫu trong dự án của mình.
 
Với những tác phẩm này, John Poppleton đã chọn tông màu đen để tăng thêm vẻ huyền ảo cho những bức tranh.
 
Không chỉ có vậy, tác giả còn tận dụng cả đường cong và hình dáng của người mẫu để giúp tác phẩm của mình thêm ấn tượng hơn.
 
John theo học nhiếp ảnh do sở thích của mình. Nhưng khi một số người bạn thuyết phục ông chụp ảnh cưới cho họ, ông đã dần trở thành một nhà nhiếp ảnh chụp chân dung chuyên nghiệp trong suốt hơn 20 năm. John luôn có ý tưởng tạo ra một cái gì đó thật đặc biệt và khác thường, nhưng những bức chân dung tuyệt vời này lại không hề nằm trong kế hoạch của ông. John nói: "Tôi chẳng đi tìm nó mà nó tự tìm đến tôi."
 
 
Những tác phẩm có nội dung cảnh sắc thiên nhiên càng trở nên lộng lẫy nhờ sự kết hợp khéo léo của màu sắc và đường cong cơ thể.
 
Năm 2010, trong một đêm không ngủ được tại một căn phòng khách sạn, John đã tìm được cảm hứng sử dụng ánh sáng đen và không ngờ rằng nó lại là bước tiến lớn cho sự nghiệp của mình. John đã nhận được rất nhiều giải thưởng cho những bức ảnh cưới tuyệt vời, và tác phẩm của ông đã có mặt trong rất nhiều cuốn sách nhiếp ảnh.
 
Say mê vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp từ những đường cong của người phụ nữ, John đã chụp lại những tác phẩm của mình vào tạo ra những bức ảnh quá tuyệt vời.
 
 
 

Mái tóc của người mẫu cũng được phủ sơn để làm nên thác nước kỳ ảo.
 
Những bức body painting của John đều mang nội dung phong cảnh, từ cảnh thiên nhiên trên mặt đất đến vẻ đẹp của dải ngân hà.


Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

XƯỚNG HỌA QUÊN THƠ NHƯ THU






XƯỚNG HỌA QUÊN THƠ NHƯ THU
Xướng:
 QUÊN
 Đời người đôi lúc vướng tai ương
Giông tố phong ba lắm đoạn trường
Hạnh phúc, giàu sang như bãi cát
Khổ đau, khốn khó tợ làn sương
Đừng lo chướng ngại lan đầu ngõ
Chớ chấp thị phi choán góc đường
Cảm tạ Hoàng Gia luôn khuyến khích
Xua tan phiền muộn chẳng còn vương.
                               Như Thu
 Họa 1:
   SÀNG LỌC
Cao niên thất chí dễ gàn ương
Xử sự xem như chốn hí trường
Có lúc bốc đồng- trai mới lớn
Nhiều khi nghiêm huấn- cụ đầu sương
Đừng tin, thằng đốt thường khoa mép
Chớ trách, người thông ít chỉ đường
Cái đẹp muôn nơi đều vốn quý
Xấu xa vất bỏ tốt nên vương .
                         Hữu Hảo


Họa 2:
CHỚ NGẠI VƯƠNG
 Giữa chốn trần gian lắm oái ương
Không may vấp phải chuyện oan trường
Nhiều khi nếm mật từng cay đắng
Lắm lúc nằm gai trải lạnh  sương
Kẻ xấu ghen tuông ngăn mọi nẻo
Người hèn đố kỵ chặn muôn đường
Anh em Hoàng hội luôn tin tưởng
Vững bước mà đi chớ ngại vương.
                      Hoàng Từ
  
Họa 3:
 TÌNH THI HỘI
Hoàng gia thi hội giống uyên ương
Chung sống bên nhau mấy dặm trường
Dào dạt thơ ca như sóng biển
Nhẹ nhàng tình cảm tựa màn sương
Đôi phen giông bão cùng xen lối
Những lúc gió mưa lại cản đường
Hờn giận thương đau ta gắn bó
Chuyện buồn vụn vặt cớ sao vương.
                     Trần Văn Hạng


Họa 4:
VUI CẢNH THANH BẦN
 Đừng trách ai kia sao dở ương
Bỗng dưng lìa bỏ chốn quan trường
Lên rừng cày cuốc trên nương rẫy
Xuống biển lưới chài trong gió sương
Mặc kẻ bon chen lo vạn kế
Kệ người toan tính nghĩ trăm đường
Dù nghèo nhưng trí luôn thanh thản
Nhìn cảnh giàu sang chẳng vấn vương.
                         Sông Thu

Họa 5:
THANH THẢN
Sa cơ thất thế, mùi hơi ương
Ngã ngựa phơi thân giữa chiến trường
Năm tháng lên rừng lo xới rẩy
Ngày đêm leo núi chịu nằm sương
Cùng vui nhân thế muôn ngàn lối
Cũng thú thanh tao mọi nẽo đường
Thanh thản từ đây trong cõi tạm
Nợ nần đoạn tuyệt, chẳng sao vương!
                     Người Nay


Họa 6:
THÂN PHẬN
 Học hành cứ lỡ dở ương ương
Mới tuổi mười lăm tạm biệt trường
Cấy lúa trồng lang thân giãi nắng
Chăn trâu đốn củi xác dầm sương
Dưa môn ló dạng quơ bờ suối
Rau má chiều buông hái dọc đường
Thân phận nghèo nàn thêm dốt chữ
Cu ly -  thuở ấy  lão còn vương.
                  ĐỘC HÀNH

Họa 7:
TÂM SỰ HOÀNG GIA
Chân tình mấy vận khổng ương ương!
Mắc mớ chi đâu phải lụy trường
Sóng biển nhấp nhô dầu nắng hạ
Mây trời lãng đãng kệ mưa sương
Thuyền đang xé nước về hai ngã
Chim đã đua mây đến một đường
Gia Hội thủ thường vui tuổi hạc
Ngoài tai to nhỏ - chẳng cần vương!
                      Trương Văn Lũy


Họa 8:
 CÙNG NHƯ THU
Ở đời ai chẳng gặp tai ương
Đâu biết khổ đau mấy dặm trường!
Sáng sớm tung tăng trong nắng hạ
Chiều tàn lạc lỏng giữa đêm sương
Niềm tin vẫn giữ hoài tâm trí
Hạnh phúc còn treo suốt nẽo đường
Những kẻ chua cay lời rắn độc
Ngoài tai bỏ mặc, chớ thèm vương!
                           Thy Lệ Trang

Họa 9:
NGẪM MÌNH
Ngẫm mình dở dở lại ương ương
Bao nhiêu uẩn khúc bấy đoạn trường
Một đời dầm giãi cùng mưa nắng
Trọn kiếp chan hòa với gió sương
Dẫu thế cuộc đời đâu địa-ngục
Biết sống trần-gian vẫn thiên-đường
Bây chừ xa xứ nằm ôn lại
Tuổi già chưa hết nỗi vấn vương.
        Mạnh-Trương
        Washington DC/USA
   
Họa 10:
TỰ TRÀO
  Y vận Quên của Như Thu
 Chạy đâu cho khỏi gặp vần "ương" ?
Chữ nghĩa lơ mơ bởi trốn trường
Lúc nhỏ ham chơi thường bỏ học        
Nay già muốn nghỉ phải dầm sương        
Bôn ba mấy thuở chưa nên chuyện
Bương chải bao phen đã hết đường   
Thôi thế thì thôi đành bỏ cuộc
Bỏ rồi vẫn thấy nợ còn vương.    
                Thục Nguyên





Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014

Lộ bảng lương 'chót vót' của các sếp ngân hàng Việt Nam

Lộ bảng lương 'chót vót' của các sếp ngân hàng Việt Nam


Giám đốc khối ngân hàng cá nhân nhận lương tháng với mức cao nhất là 360 triệu, ít hơn so với mức lương cao nhất 500 triệu của giám đốc ngân hàng doanh nghiệp.


Adecco -tập đoàn quốc tế cung cấp các dịch vụ nguồn nhân lực - vừa công bố báo cáo Vietnam Salary Guide 2014, trong đó thống kê các thông số về chức danh, đặc điểm công việc, bằng cấp, số năm kinh nghiệm, và mức lương trong các ngành nghề.

8 ngành chính được báo cáo thống kê bao gồm: Tài chính ngân hàng, pháp luật, văn phòng, bán hàng tiếp thị, tổ chức sự kiện, công nghệ thông tin, kỹ thuật, y tế.

Trong đó, nhìn chung các lãnh đạo thuộc khối tài chính ngân hàng nhận lương cao hơn cả.

Trong hai nhóm ngân hàng trong báo cáo, các sếp ngân hàng cá nhân nhận lương tháng với mức cao nhất là 360 triệu, ít hơn 1/3 so với mức lương cao nhất 500 triệu của giám đốc ngân hàng doanh nghiệp.

Dưới đây là bảng lương trung bình của các sếp ngân hàng Việt Nam:
 




Theo Lê Phương/ Diễn đàn đầu tư

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Hà Nội cổ xưa qua ống kính "Toàn quyền Đông Dương"

Hà Nội cổ xưa qua ống kính "Toàn quyền Đông Dương"

Cuối thế kỷ 19, trên nóc Tháp Rùa có tượng Nữ thần Tự do, chợ Đồng Xuân lợp tôn hoặc mái lá.


Triển lãm "Ký ức Việt Nam 1895-1896" tại Thư viện quốc gia mới đây giới thiệu hơn 200 bức ảnh của Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau. Trong thời gian đương nhiệm, ông Rousseau chụp khá nhiều ảnh về Hà Nội. Bức ảnh này chụp toàn cảnh Hồ Gươm, vòng đỏ phía xa được xác định là cột khói của xưởng nhuộm thuộc một công ty xây năm 1891, sau chợ Đồng Xuân. Năm 1918, công ty này sáp nhập với Nhà máy dệt ở Nam Định.


Trên hồ Hoàn Kiếm có 2 hòn đảo, một to gần bờ và nhỏ giữa hồ. Giữa thế kỷ 19, người Việt đã xây một đền nhỏ, một ngọn tháp bằng đá (Tháp Bút) và cái cầu bắc qua (Thê Húc) để ra ngôi đền Ngọc Sơn trên đảo lớn.

Còn ở đảo nhỏ mãi tới năm 1886 mới xây Tháp Rùa bằng gạch. Thời điểm chụp bức ảnh này, trên nóc Tháp Rùa có phiên bản tượng Nữ Thần Tự do của nhà điêu khắc Pháp August Bertholdi được đưa đến Hà Nội dự đấu xảo và sau đó đặt ở đây. Bị dư luận chỉ trích, nó phải chuyển đi nơi khác.


Cuối thế kỷ thứ 19, những người Pháp ở Hà Nội xem hồ Gươm là hồ Nhỏ, phân biệt với hồ Tây (trong hình) là hồ Lớn.


Khi người Pháp quy hoạch Hà Nội, nảy sinh xung đột giữa một bên là bảo tồn nơi thờ tự của người Việt với việc bảo tồn những cây cổ thụ và một bên là xây dựng đô thị kiểu châu Âu, du nhập các loại cây phù hợp. Sử chép rằng các quan chức cao cấp chủ trương tôn trọng tập quán thì các quan chức quản lý thành phố ưu tiên yếu tố hiện đại.


Công trình đầu tiên Pháp quy hoạch Hà Nội là chỉnh trang không gian quanh hồ Hoàn Kiếm. Trong ảnh, con đường chạy quanh hồ được khánh thành vào Tết năm 1893.


Thời Rousseau cầm quyền, người Pháp không phá bỏ những phố phường từ xưa của đất Thăng Long. Ở mức độ khác nhau, họ đầu tư cải tạo hạ tầng nhưng vẫn giữ nguyên yếu tố truyền thống. Trong ảnh này phố Chợ Gạo vẫn giữ được vẻ sơ sài, bán gạo và nông sản.


Phố Hàng Mắm với đoàn người gánh các thùng gỗ đựng mắm từ bến sông vào các cửa hàng.


Phố Hàng Bông có nhà cửa bằng gạch khang trang, đang được chỉnh trang hạ tầng nhờ sức lao động của những người tù khổ sai. Họ đang kéo các chiếc lu lăn đường rất nặng.


Cùng với việc chỉnh trang khu phố cổ, các đường phố mới cũng được quy hoạch bài bản để mở rộng quy mô của Hà Nội. Trước năm 1888, người Pháp lưu trú trong khu vực, được gọi là Đồn Thủy. Họ đã cho kè đê mở rộng từ Đồn Thủy tới tận Hồ Tây.


Con phố mang tên “Rue de France - Nước Pháp” từ bờ sông Hồng đi thẳng vào trung tâm hồ Hoàn Kiếm, tạo nên một con đường mới và sầm uất nhất: Đường Paul Bert, nay là Tràng Tiền.


Con đường đầu tiên mở mang không gian thành phố về phía nam hồ Hoàn Kiếm mang tên vị vua đã ký nhượng Hà Nội cho Pháp - Đồng Khánh - nay chính là phố Hàng Bài.

Con đường ven hồ Hoàn Kiếm ở phía Đông sẽ là trục đường đi qua các công sở của thành phố: Bưu điện, tòa thị chính, vườn hoa Paul Bert… mang tên một viên sĩ quan Pháp tử nạn, nay là đường Đinh Tiên Hoàng.


Cái tên Jules Ferry, Thủ tướng Pháp thời đó, được đặt cho một con đường phía Tây hồ Hoàn Kiếm, rất gần Nhà Thờ Lớn.

Con đường này vốn là phố của thợ vẽ và thợ làm trống, nó được kéo dài tới hết hồ Gươm. Tại đây, nhiều khách sạn, tòa báo và các cửa hàng được lập ra. Xe kéo là phương tiện giao thông chủ yếu trong thành phố thời đó.

Con voi này là phương tiện đi lại cho một quan chức cao cấp của Việt Nam đang có mặt tại đây.

Thời điểm Armand Rousseau làm Toàn quyền, dân số Hà Nội chưa đông. Do nhu cầu, người châu Âu trong thành phố đòi hỏi thành lập trường đua ngựa và một nơi tổ chức hòa nhạc. Sân Quần Ngựa được xây gần hồ Tây.


Còn nhà hòa nhạc (Nhà Kèn) được xây gần hồ Hoàn Kiếm. Vào ngày nghỉ, đội nhạc của Pháp đóng ở Hà Nội thường diễu hành qua hồ rồi về đây hòa nhạc.

Đền Quán Thánh, ngôi đền được xây từ thế kỷ 12, chuyển về gần Hồ Tây thế kỷ 15. Nó được trùng tu năm 1893 và khánh thành đúng thời điểm ông Rousseau đương quyền. Thời đó người Pháp quen gọi bức tượng đồng Thánh Trấn Vũ nặng 4 tấn là đại Phật.


Với một đô thị chuẩn Pháp thì một không gian sinh thái nhằm cân bằng cuộc sống đô thị hóa là nhu cầu thiết yếu. Công viên Bách Thảo được xây dựng, trồng nhiều loại cây, nuôi muông thú. Chỗ ở của Rousseau là tòa nhà không lớn nhưng có nhiều cây cối bao quanh. Tới những năm 1901-1907, phủ toàn quyền mới được xây dựng.


Hà Nội xưa gọi là Kẻ Chợ bởi tự thân là một cái chợ lớn đáp ứng nhu cầu một thời là kinh đô của những vùng xung quanh.


Chợ Đồng Xuân lớn hơn cả, được quy hoạch ở vị trí hiện thời vào những năm cuối thế kỷ 19. Mái tôn là biểu hiện cho việc đã trở thành đô thị do Pháp quy hoạch.


Chợ có khu vực bán rau quả kéo dài ra gần sông Hồng, gần với các bến bãi bán tre nứa được thả từ miền thượng du về. Một Hà Nội của những người bán rong đã có thời đó.


Lúc này, cầu Long Biên bắc qua sông Hồng chưa hình thành. Ảnh của Rousseau cho thấy vai trò của giao thông đường thủy bằng thuyền gỗ, bè mảng truyền thống hay các loại tàu chạy máy hơi nước. Mùa cạn, những cây cầu phao này sẽ thay thế.


Bộ ảnh còn lưu lại nhiều bức hình quý giá về thành Hà Nội trước khi bị phá hủy. Trong ảnh, Cửa Đoan Môn thẳng với Sở Pháo thủ của quân Pháp.

Cầu bắc vào Cửa Đông thành Hà Nội. Trước khi Pháp làm chủ thành Hà Nội thì Hoàng thành Thăng Long đã 2 lần phải sửa chữa lớn. Vua Gia Long thu nhỏ lại, vua Minh Mạng hạ thấp thành thêm một mức.

Người Pháp chỉ giữ lại duy nhất cửa Bắc và cột cờ để quy hoạch lại Hà Nội theo đúng chuẩn một thành phố phương Tây. Trong ảnh là quang cảnh bên trong thành Hà Nội.


Theo sử chép thì Toàn quyền Armand Rousseau là người thực hiện vì việc khánh thành khởi công năm 1896 và kết thúc năm 1897.


Trong bộ sưu tập ảnh của ông, có thể đây là những tấm ảnh cuối cùng cho thấy kiến trúc thành còn khá nguyên vẹn. Việc quy hoạch hoàng thành mới được triển khai, thể hiện ở việc trồng cây xanh và làm đường ở khu vực cột cờ Hà Nội.

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

Những cái cũ & xưa nhất của Saigon


Những cái cũ & xưa nhất của Saigon

Ngôi trường cổ nhất


 
Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. 

Nhà máy điện xưa nhất


Nhà máy điện Chợ Quán xây dựng năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW. Máy phát điện chính công suất 1000A/h. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5. 

Bệnh viện cổ nhất

Bệnh viện Chợ Quán xây dựng năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 giao cho Quân đội gọi là Viện bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn Việt có 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh. 

Nhà hát cổ nhất



Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu.
 

Khách sạn cổ nhất

Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, xây dựng năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam bị tụi Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental có diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế 
 
Nhà thờ cổ nhất

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 xây dựng từ năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ Quận 5.

Ngôi đình cổ nhất


Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, xây dựng vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp–sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp. 

Nhà văn hóa cổ nhất


Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Spertif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao của quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ cơ ngơi này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để cải tạo xây dựng thành nơi tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2,8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn
 .

Công viên lâu đời nhất

Thảo Cầm Viên do người Pháp xây dựng năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi trồng những động thực vật vùng nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được cải tạo, mở rộng và nhập thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.

Ngôi nhà xưa nhất


Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn  nằm trong khuôn viên Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn -180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá Đa Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây dựng bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá Đa Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trỗ công phu hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Đá Ba Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống- bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch. 

Ngôi chùa cổ nhất


Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP. HCM nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ. 

Đường sắt đầu tiên ở thành phố


Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đừơng sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, xây dựng năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đướng sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hoà Hưng. Trên nền Ga Sài Gòn cũ ngày 8/8/1998, khởi công xây dựng Trung Tâm Văn Hoá Thương Mại Sài Gòn. 

Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp


Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hoá phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.

Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên


Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869. 

Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam


Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công nông thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tính dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nôi trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.

Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên


“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ. 

Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên


Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây dựng theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được xây dựng từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gôtic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây dựng này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp. 

Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây

Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, Latinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỉ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn - Gia Định theo phương pháp phương Tây.